Theo TS Hồ Huy Cường, Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ (ASISOV), đậu phộng(lạc) là cây công nghiệp ngắn ngày, cây hàng hóa quan trọng mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân vùng Duyên hải Nam Trung bộ. Đơn cử như ở Bình Định, diện tích trồng lạc hàng năm luôn chiếm trên 60% so với tổng diện tích gieo trồng cây công nghiệp ngắn ngày trên địa bàn tỉnh.
Theo TS Hồ Huy Cường, Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ (ASISOV), đậu phộng(lạc) là cây công nghiệp ngắn ngày, cây hàng hóa quan trọng mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân vùng Duyên hải Nam Trung bộ. Đơn cử như ở Bình Định, diện tích trồng lạc hàng năm luôn chiếm trên 60% so với tổng diện tích gieo trồng cây công nghiệp ngắn ngày trên địa bàn tỉnh.
Mặc dù đậu xanhvà mè (vừng) không xếp vào đối tượng cây trồng chủ lực, tuy nhiên, trong tiến trình thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp và chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang sản xuất các loại cây trồng cạn theo chủ trương của Bộ NN-PTNT, hiện nay, diện tích gieo trồng đậu xanh trong cả nước đã đạt hơn 40.000ha và diện tích gieo trồng mè hơn 33.000ha. Các tỉnh phía Nam chiếm trên 75% diện tích đậu xanh và mè của cả nước, trong đó đặc biệt có vùng sinh thái Nam Trung bộvà Tây Nguyên.
Trước diễn biến bất lợi của biến đổi khí hậu, lượng mưa chủ yếu tập trung trong mùa mưa và khô hạn thường xuyên kéo dài trong mùa nắng nóng. Cây đậu xanh và cây mè ngày càng được nông dân vùng Duyên hải Nam Trung bộ lựa chọn trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu. Bởi đậu xanh và mè là những cây trồng có khả năng chịu hạn tốt, thời gian sinh trưởng ngắn nên có khả năng thích ứng cao.
Từ thực tế trên, Bộ NN-PTNT đã giao cho ASISOVchọn tạo những giống đậu xanh có thời gian sinh trưởng ngắn, kháng cao với bệnh khảm vàng, chín tập trung để phù hợp cơ giới hóa. Đồng thời nghiên cứu, chọn tạo giống mè có thời gian sinh trưởng ngắn, có hàm lượng dầu trên 53%, nhiễm trung bình với bệnh đốm lá. Ngoài ra, ASISOV còn xây dựng quy trình canh tác cho giống đậu xanh và mè mới chọn tạo.
Mô hình thâm canh cây mè trên đất chuyển đổi của Trung tâm Khuyến nông Bình Định. Ảnh: V.Đ.T.
Trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nông dân Bình Định thời gian qua đã sử dụng phổ biến 2 giống đậu xanh mới do ASISOV chọn tạo là ĐXBĐ.07 và ĐXBĐ.08. Hai giống đậu xanh mới này có khả năng kháng được bệnh khảm lá và chín tập trung, giúp nông dân giảm số lần thu hoạch và dần tiến tới cơ giới hóa khâu thu hoạch để giảm công thu hoạch.
Theo ông Huỳnh Việt Hùng, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Bình Định, thời gian qua, đơn vị đã triển khai nhiều mô hình khảo nghiệm giống đậu xanh mới để phục vụ chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên địa bàn. Sự ra đời của 2 giống đậu xanh mới ĐXBĐ.07 và ĐXBĐ.08 do ASISOV chọn tạo đã cho nông dân Bình Định thêm sự lựa chọn trong sản xuất.
“2 giống đậu xanh nói trên trái chín tập trung hơn giống đậu xanh nông dân đang sản xuất đại trà. Ưu điểm này đã giúp rút ngắn được thời gian cây đậu xanh đứng trên đồng, phù hợp để chuyển đổi trên chân đất lúa thiếu nước và thích ứng với biến đổi khí hậu”, ông Hùng chia sẻ.
Ngoài ra, theo TS Vũ Văn Khuê, Phó Viện trưởng ASISOV, trong quá trình xây dựng các mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng tại một số tỉnh Nam Trung bộ, một số địa địa phương cũng đã tích cực thực hiện chuyển đổi diện tích đất lúa có nguy cơ khô hạn cao trong vụ hè thu sang trồng các cây trồng cạn, trong đó có mô hình chuyển đổi xen canh cây mè với diện tích 20ha rất thành công, cho năng suất trên 1 tấn/ha.
“Mô hình chuyển đổi canh tác 2 vụ lúa sang 1 vụ lúa đông xuân và 1 vụ mè vụ hè thu tại 3 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định cho hiệu quả vượt kỳ vọng. Ví như mô hình chuyển đổi sang trồng mè tại xã Mỹ Phong (huyện Phù Mỹ, Bình Định) cho năng suất thực thu đạt 8,5 tạ/ha; mô hình mè tại xã Bình Thạnh (huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) cho năng suất thực thu đạt 10,7 tạ/ha; mô hình mè tại xã Hành Tín Tây (huyện Nghĩa Hành, Quảng Ngãi) cho năng suất thực thu đạt 10,3 tạ/ha và mô hình tại xã Tam Giang (huyện Núi Thành, Quảng Nam) cho năng suất thực thu đạt 8,1 tạ/ha”, TS Vũ Văn Khuê chia sẻ .
“Duyên hải Nam Trung bộ là vùng khô hạn, chuyển đổi những chân đất lúa kém hiệu quả sang sản xuất các loại cây trồng cạnít sử dụng nước tưới, lại cho hiệu quả kinh tế cao hơn làm lúa gấp nhiều lần, đây là giải pháp tối ưu. Ví như 1ha đậu phộng ở xã Cát Hải (huyện Phù Cát, Bình Định) cho doanh thu đến 150 triệu/vụ, lại tiêu thụ rất ổn định. Một lợi ích khác là khi canh tác ít sử dụng nước tưới sẽ giảm yếm khí và phát thải sẽ giảm theo”, TS Hồ Huy Cường, Viện trưởng ASISOV chia sẻ.
Người dân nước nào uống cà phê nhiều nhất?
(SGTT) - Thông tin từ Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hiệp quốc (FAO) cho thấy người dân thế giới càng ngày càng uống nhiều cà phê hơn. Thị trường cà phê luôn đa dạng, phong phú và mỗi loại cà phê lại có nguồn gốc, cách pha chế và giá cả khác nhau.
Mặc dù Brazil và Việt Nam là 2 quốc gia đứng đầu về sản lượng cà phê cung cấp cho thế giới nhưng người dân Châu Âu lại là những người uống cà phê nhiều nhất. Danh sách 10 nước đứng đầu về tiêu thụ cà phê theo đầu người lần lượt là Hà Lan, Thụy Điển, Iceland, Na Uy, Đan Mạch, Áo, Thụy Sĩ, Hy Lạp, Bosnia-Herzegovina và Đức.
Theo kết quả nghiên cứu của Kantar Worldpanel, Latte là loại cà phê phổ biến nhất thế giới hiện nay với tổng doanh số trong năm 2017 lên đến 930 triệu tách, Cappuccino đứng hàng thứ hai với khoảng 800 triệu tách. Cà phê flat-white (một biến thể của loại cà phê Espresso pha theo kiểu Úc) cũng đang mỗi ngày một phổ biến, với mức tăng doanh số toàn cầu đến 56% từ tháng 2-2017 đến tháng 2-2018.
Cho tới nay Brazil vẫn là nước dẫn đầu thế giới về sản xuất cà phê, với sản lượng mùa vụ 2017-2018 vào khoảng 51 triệu bao hạt nhân (mỗi bao tương đương 60kg). Đứng thứ hai vẫn là Việt Nam với gần 30 triệu bao. Colombia, Indonesia, Honduras, Ethiopia, Ấn Độ, Uganda, Peru, Mexico lần lượt chiếm các vị trí kế tiếp trong số 10 nước sản xuất cà phê lớn nhất.
Những khu vực lý tưởng để trồng cà phê tạo thành một vành đai cà phê theo đường xích đạo, từ 23 vĩ độ Bắc đến 23 vĩ độ Nam, chủ yếu là các nước đang phát triển. Quỹ Fairtrade Foundation cho biết hiện nay có tới 125 triệu người sống nhờ vào nghề trồng cà phê. Mặc dù có hàng trăm loại cà phê khác nhau, chỉ có hai loại Arabica and Robusta là hai loại được dùng phổ biến nhất.
Giá cả cà phê tại mỗi nước lại rất khác nhau. Theo Tổ chức Cà phê Quốc tế, giá cà phê rang tại Anh đắt đỏ nhất, lên đến 11,45 bảng Anh (16,29 đô la Mỹ) cho mỗi cân Anh trong năm 2016. Trong khi đó, giá cùng loại mặt hàng ở Malta là 13,33 đô la và ở Ý chỉ là 7,45 đô la. Đặc biệt, ở Hà Lan, nơi người dân uống cà phê nhiều nhất, mỗi cân Anh cà phê rang chỉ còn 3,17 đô la.
Công ty nghiên cứu thị trường Allegra Strategies cho biết năm 2017 tại Mỹ có 27.900 tiệm cà phê và ở Âu châu là 22.700 hiệu. Starbucks có trụ sở Seattle (Mỹ) hiện đang dẫn đầu các thương hiệu cà phê, với 13.500 cửa hiệu tại Mỹ và 2.406 cửa hiệu tại châu Âu. Thương hiệu này đang mở rộng rất nhanh đến nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.