A. Trồng rừng, bảo vệ rừng và hạn chế sử dụng nguyên liệu hóa thạch.
A. Trồng rừng, bảo vệ rừng và hạn chế sử dụng nguyên liệu hóa thạch.
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc, BDKH phản ánh sự thay đổi dài hạn về nhiệt độ và các hiện tượng thời tiết. Những thay đổi này là tự nhiên, nhưng kể từ những năm 1800, tác động của con người là nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu, chủ yếu do đốt nhiên liệu hóa thạch (như than, dầu và khí đốt) tạo ra khí giữ nhiệt.
BDKH có thể gây ra những tác động nghiêm trọng đối với môi trường, nền kinh tế và xã hội, bao gồm tăng mực nước biển, sự biến đổi của môi trường sống, tăng tần số của các hiện tượng thời tiết cực đoan như hạn hán và lũ lụt, và tác động đến năng suất nông nghiệp.
Nông nghiệp "thuận thiên" sử dụng các kỹ thuật canh tác thích ứng với BDKH, giúp người dân giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Điều này rất quan trọng đối với Đồng bằng sông Cửu Long, một vùng đất dễ bị tổn thương bởi thiên tai.
Tại Hậu Giang và Cần Thơ hiện nay, thu nhập của các hộ nông dân nữ ở tỉnh còn thấp và không ổn định, do phụ thuộc vào diện tích canh tác nhỏ, năng suất thấp, và chi phí sản xuất cao. Bên cạnh đó, nông dân nữ thiếu kiến thức và kỹ năng sản xuất nông nghiệp bền vững, dẫn đến suy thoái môi trường và sức khỏe, cũng như gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường và các dịch vụ hỗ trợ.
Vì vậy mà dự án "Abavina - Cộng đồng nông nghiệp Thuận Thiên đã được cho ra đời vào năm 2017. Đây là một dự án quan trọng của công ty Abavina, nhằm hỗ trợ phụ nữ ở Hậu Giang và Cần Thơ trong việc phát triển sinh kế xanh. Từ khi triển khai, dự án đã có ảnh hưởng tích cực bằng cách nâng cao thu nhập, cải thiện môi trường và sức khỏe cho cộng đồng nông dân nữ ở các tỉnh này. Ngoài ra, dự án cũng đã đóng góp vào việc thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Nguồn: Abavina - Cộng đồng nông nghiệp Thuận Thiên
Dự án đang tập trung vào những mục tiêu như:
Cùng nông hộ xây dựng phương án sinh kế nông nghiệp dựa vào tài nguyên bản địa được thiết kế tùy chỉnh theo đặc điểm của từng nông hộ, theo hướng tối ưu hoá trên tài nguyên sẵn có và tăng thu nhập
Đồng hành, huấn luyện nông hộ biết tổ chức và quản lý kinh tế hộ gia đình, phát triển tư duy tự chủ, năng lực tự chủ và năng lực hợp tác của nông hộ
Liên kết nông hộ tham gia chuỗi cung ứng nông sản của Abavina; Kết nối thị trường & phân phối sản phẩm đâu ra
Thúc đẩy hợp tác phát triển giữa nông hộ và các bên liên quan, thúc đẩy kết nối, học hỏi, hợp tác nguồn lực
Tạo điển hình sản xuất và lan tỏa phương pháp thực hành để thúc đẩy hình thành cộng đồng nông nghiệp quy mô nhỏ dựa vào tài nguyên bản địa. Theo đó tài nguyên địa phương tối ưu hoá trong mô hình sản xuất tuần hoàn, khai thác bền vững và phục hồi hệ sinh thái.
Phát triển các dòng sản phẩm giá trị gia tăng (nông sản, thảo dược) từ tài nguyên bản địa, tạo giá trị gia tăng cho nông hộ sản xuất, người tiêu dùng và địa phương
Phát triển thị trường, phân phối sản phẩm cho nông hộ, và xây dựng thương hiệu nông sản thuận tự nhiên Abavina
Truyền thông và thúc đẩy nhân rộng mô hình cộng đồng nông nghiệp dựa vào tài nguyên bản địa
Đến nay, dự án đã đạt được những kết quả và tác động tích cực, góp phần nâng cao sinh kế, cải thiện môi trường và sức khỏe cho cộng đồng nông dân nữ ở tỉnh Hậu Giang và Cần Thơ.
Năng suất và chất lượng nông sản từ các hộ nông dân đã trải qua sự cải thiện đáng kể, điều này đã dẫn đến việc tăng thu nhập trung bình của họ lên tới 30%.
Nguồn: Abavina - Cộng đồng nông nghiệp Thuận Thiên
Ngoài ra, các hộ nông dân đã tích lũy kiến thức và kỹ năng cần thiết để thực hiện sản xuất và kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp bền vững. Trong đó nông dân nữ đã có cơ hội tiếp cận thị trường và các dịch vụ hỗ trợ, đồng thời họ đã xây dựng được vị thế và tiếng nói trong cộng đồng. Qua đó,nhận thức về việc bảo vệ môi trường đã được nâng cao trong cộng đồng các hộ nông dân, từ đó môi trường và hệ sinh thái địa phương cũng có nhiều sự cải thiện đáng kể.
Xem thêm: Khóa học e-Learning cung cấp kiến thức kỹ năng cho người trẻ thực hành công việc tạo tác động xã hội bền vững. Và chờ đón khoá học online về ESG chuẩn bị ra mắt.
Các bạn tham gia vào group Sự Nghiệp Hạnh Phúc để cùng với DOC lan tỏa nhiều giá trị tốt đẹp, học hỏi lẫn nhau, cùng nhau phát triển thật bền vững nhé
Nguồn: Abavina - Cộng đồng nông nghiệp Thuận Thiên
TS TRƯƠNG THỊ HỒNG NGATrường Đại học Xây dựng miền Tây
(LLCT) - Vĩnh Long là tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, có vị trí địa lý giữa sông Tiền và sông Hậu, do vậy là địa phương bị tác động mạnh do biến đổi khí hậu, điển hình là khô hạn, xâm nhập mặn, ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế - xã hội. Trong những năm qua, tỉnh đã chú trọng thực hiện các chính sách, biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, nhằm bảo đảm phát triển bền vững.
Biến đổi khí hậu gây ra nhiều thiệt hại trong sản xuất nông nghiệp tại tỉnh Vĩnh Long_Ảnh:TTXVN
Tỉnh Vĩnh Long có thế mạnh về sản xuất nông nghiệp. Với vị trí địa lý ở giữa sông Tiền và sông Hậu, đất đai ít bị nhiễm phèn, có tầng đất sét ở độ sâu từ 5m đến 20m, thích hợp với cây lúa và các loại cây ăn quả ngắn ngày. Đồng thời, khí hậu Vĩnh Long thuộc khu vực có lượng gió lớn và thường có ba hướng gió chính là gió Tây Nam, Đông Bắc và gió Đông Nam, ít chịu ảnh hưởng của bão từ biển Đông. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, trong những năm qua, tỉnh Vĩnh Long đã chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu, điển hình là tình trạng khô hạn, xâm nhập mặn với cường độ cao, ngày càng gay gắt, gây nhiều hệ lụy đến môi trường, cân bằng sinh thái, gây sụt lún đất, suy giảm mực nước ngầm ở nhiều nơi với diễn biến ngày càng phức tạp. Tình hình đó ảnh hưởng nặng nề đến phát triển kinh tế - xã hội, gây thiệt hại đời sống nhân dân, đe dọa an ninh lương thực và tác động đến chiến lược quốc phòng an ninh. Trước tình hình đó, tỉnh đã thực hiện các chính sách, biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, nhằm bảo đảm phát triển bền vững.
2. Vĩnh Long thực hiện các chủ trương, giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu
Theo dự báo của Bộ Tài nguyên và Môi trường về biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng: Nếu mực nước biển dâng 65 cm thì diện tích bị ngập là 5.133km2, bằng 12,8% diện tích đồng bằng sông Cửu Long, nước biển dâng 75cm tương ứng là ngập 7.580km2 (19%), mực nước biển dân 100cm diện tích ngập sẽ là 15.116 km2 (37,8%).
Với kịch bản đó, xâm nhập mặn ăn sâu vào nội địa là điều khó tránh khỏi và một phần diện tích không nhỏ của tỉnh Vĩnh Long sẽ nằm dưới mực nước biển.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của thích ứng với biến đổi khí hậu, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về ứng phó biến đổi khí hậu, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội đồng bằng sông Cửu Long và bước đầu mang lại thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Đặc biệt, đồng bằng sông Cửu Long đã khẳng định được vị thế là trung tâm sản xuất, xuất khẩu lúa gạo, thủy hải sản và trái cây hàng đầu của cả nước, góp phần bảo đảm an ninh lương thực, mang lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể phục vụ phát triển đất nước.
Với đặc thù là vùng đồng bằng có hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc, sự thay đổi của tự nhiên, tình hình biến đổi khí hậu và nước biển dâng diễn ra nhanh, các hiện tượng thời tiết cực đoan, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
Đặc biệt là hoạt động phát triển kinh tế ở nội vùng với cường độ ngày càng cao, gây những tác động đối với môi trường tự nhiên, gây ô nhiễm môi trường, làm mất cân bằng sinh thái; làm thay đổi dòng chảy, giảm lượng phù sa, suy giảm nguồn lợi thủy sản, sụt lún đất, suy giảm mực nước ngầm. Nhiều diện tích rừng tự nhiên bị chặt phá, chuyển đổi sang mục đích sử dụng khác đã làm gia tăng nguy cơ sạt lở, xâm nhập mặn sâu.
Bên cạnh đó, công tác quản lý nhà nước về môi trường còn nhiều yếu kém, chậm đổi mới, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan, các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Xuất phát tình hình thực tiễn, Hội nghị Trung ương 7 (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 3-6 - 2013 về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Trong đó, Nghị quyết xác định nhiệm vụ trọng tâm ứng phó với biến đổi khí hậu là tăng cường triển khai tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về biến đổi khí hậu, xem đây là một trong những đột phá về giải pháp.
Xác định ứng phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ chính trị quan trọng. Nhà nước xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm thực hiện tốt việc quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhiệm vụ này được đặt trong đường lối, chính sách phát triển tổng thể, phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng an ninh, an sinh xã hội.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XI) có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự phát triển bền vững của cả nước nói chung, khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói riêng.
Triển khi chủ trương của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 593/QĐ-TTg, ngày 6-4 -2016, ban hành Quy chế thí điểm liên kết phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2016-2020. Định hướng các địa phương chủ động liên kết vùng để ứng phó với biến đổi khí hậu trên các lĩnh vực về đầu tư xây dựng, thủy lợi phục vụ tưới tiêu, phòng chống lũ và kiểm soát xâm nhập mặn; tăng cường công tác quản lý nhà nước về quản lý, khai thác sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước; xây dựng, bảo vệ hệ thống đê bao, cống, đập, vành đai rừng ngập mặn và các dự án bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Ngày 17-11-2017, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, với mục tiêu tầm nhìn đến năm 2100, đồng bằng sông Cửu Long phát triển theo hướng bền vững, an toàn, thịnh vượng, trên cơ sở phát triển nông nghiệp hàng hóa chất lượng cao kết hợp với dịch vụ, du lịch sinh thái, công nghiệp. Trong đó, trọng tâm là công nghiệp chế biến để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp.
Xác định mục tiêu đến năm 2050, đồng bằng sông Cửu Long có trình độ phát triển khá so với cả nước, thu nhập bình quân đầu người đạt cao hơn trung bình cả nước, sinh kế của người dân được bảo đảm và hệ sinh thái tự được bảo tồn và phát triển. Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đột phá là hoàn thiện cơ chế chính sách, xây dựng hệ thống hạ tầng đồng bộ, hiện đại, bền vững.
Qua 5 năm, thực hiện Nghị quyết số 24/NQ-TW về ứng phó với biến đổi khí hậu đã đạt được nhiều kết quả tích cực, nhất là hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách từng bước được hoàn thiện, công tác phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu được nâng lên một bước, tài nguyên thiên nhiên và công tác bảo vệ môi trường được chú trọng, bước đầu hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm.
Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được vẫn còn những hạn chế, yếu kém, bất cập khi biến đổi khí hậu diễn biến nhanh hơn dự báo, gây hậu quả ngày càng lớn. Khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai còn thấp, công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên còn nhiều yếu kém, nhất là tài nguyên đất đai, tài nguyên nước; một số loại tài nguyên bị khai thác quá mức dẫn đến suy thoái, cạn kiệt.
Trước thực tế đó, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 56-KL/TW ngày 23 - 8 - 2019, về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Trong đó, xác định tầm quan trọng về thích ứng biến đổi khí hậu nhằm thực hiện phát triển bền vững, thịnh vượng ở đồng bằng sông Cửu Long, trên cơ sở tôn trọng quy luật tự nhiên, phù hợp với điều kiện thực tế, tránh can thiệp thô bạo vào tự nhiên, tạo môi trường thân thiện và phát triển bền vững với phương châm chủ động sống chung với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn vì lợi ích chung của đất nước.
Với định hướng chiến lược phát triển đồng bằng sông Cửu Long lấy con người làm trung tâm, Bộ Chính trị đã yêu cầu thích nghi với biến đổi khí hậu, biến thách thức thành cơ hội. Lấy tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi, là cơ sở cho việc hoạch định chiến lược, chính sách, quy hoạch phát triển vùng.
Bên cạnh tài nguyên nước ngọt, cần coi nước lợ, nước mặn cũng là nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế, nhất là chú trọng phát triển vùng đặc quyền kinh tế và vị trí địa chính trị của đồng bằng sông Cửu Long.
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đã triển khai phù hợp với thực tiễn địa phương.
Ngày 16 - 9 - 2013, Tỉnh ủy Vĩnh Long ban hành Chương trình hành động số 18-CTr/TU về thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, đẩy mạnh quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh.
Tỉnh ủy tập trung chỉ đạo công tác xây dựng năng lực dự báo, cảnh báo, chủ động phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Đồng thời, từng bước chuyển đổi cơ cấu, giống cây trồng, vật nuôi, điều chỉnh mùa vụ, kỹ thuật sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu. Tăng cường kiến thức, nâng cao năng lực thích ứng, bảo đảm sinh kế cho người dân những vùng có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, vùng thường xuyên bị tác động của thiên tai. Chủ động chuẩn bị các phương án, điều kiện phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai, nhất là các địa bàn vùng trũng dễ bị triều cường, ngập, lún, sạt lở,…
Ngày 9- 7- 2014, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 1031/QĐ-UBND về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động số 18-CTr/TU ngày 16-9-2013 của Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, đẩy mạnh quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh.
Ủy ban nhân dân tỉnh xác định mục tiêu cụ thể là đẩy mạnh quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường để đạt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long theo hướng nâng cao giá trị, hiệu quả và phát triển bền vững, chuyển đổi đúng định hướng, giảm dần diện tích đất lúa, cây ăn trái kém hiệu quả do xâm nhập mặn, phấn đấu tăng dần giá trị diện tích đất gieo trồng là 58.580 ha(1), hình thành chuỗi giá trị sản phẩm cây lúa với hệ thống cung ứng - liên kết trong sản xuất - tiêu thụ giữa vùng và trong khối ngành nông nghiệp.
Tăng cường công tác ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm quyết tâm thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, bảo đảm sản xuất.
Ngày 11-12-2015, Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Long ban hành Nghị quyết số 158/2015/NQ-HĐND về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng an ninh tỉnh Vĩnh Long 5 năm 2016-2020. Nghị quyết đã chỉ rõ nhiệm vụ hàng đầu của tỉnh là bảo vệ tài nguyên, môi trường, phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong đó, tăng cường sự phối hợp liên ngành, liên vùng trong khai thác, sử dụng nguồn nước, phối hợp trong khai thác và kiểm soát nguồn tài nguyên cát, chống sạt lở bờ sông, giảm thiểu thiệt hại về người và tài sản của người dân sống và sản xuất ven sông. Đẩy mạnh kiểm tra, xử lý các công trình đã xây dựng, nhất là với các công trình lấn ra lòng sông, cản trở dòng chảy.
Đồng thời, triển khai đồng bộ các giải pháp chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, đẩy mạnh quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh. Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường, quản lý và sử dụng hiệu quả, hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, quản lý chặt chẽ việc khai thác nguồn tài nguyên khoáng sản.
Thực hiện các biện pháp phòng ngừa và hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường, ngăn chặn sự xâm nhập của sinh vật ngoại lai, biến đổi gen gây nguy hại cho môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học, tạo cân bằng hệ sinh thái. Đồng thời, đẩy mạnh sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, điều chỉnh mùa vụ, kỹ thuật sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu, tăng cường kiến thức, nâng cao năng lực thích ứng, bảo đảm sinh kế cho người dân những vùng có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, vùng thường xuyên bị tác động của thiên tai. Chủ động chuẩn bị các phương án, điều kiện phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai, nhất là các địa bàn vùng trũng dễ bị triều cường, ngập, lún, sạt lở,…
Ngày 10-8- 2018, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long ban hành Quyết định số 10/2018/QĐ-UBND về phê duyệt điều chỉnh quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng cát lòng sông trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Trong đó xác định mục tiêu tiếp tục phát huy tối đa thế mạnh về điều kiện tự nhiên của tỉnh nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp, phấn đấu đến năm 2020 giá trị sản xuất ngành nông - lâm - thuỷ sản đạt khoảng 23.520 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016 - 2020 khoảng 3,5%/năm, trong đó nông nghiệp tăng 2,88%/năm(2).
Tiến hành thăm dò, khai thác khoáng sản cát lòng sông nhằm sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản, là cơ sở pháp lý để thực hiện việc cấp phép thăm dò, cấp phép khai thác khoáng sản cát lòng sông, tăng cường công tác quản lý nhà nước về khoáng sản theo đúng quy định của pháp luật. Trên cơ sở đánh giá hiện trạng nguồn tài nguyên khoáng sản cát lòng sông và khả năng đáp ứng nguồn tài nguyên khoáng sản, tỉnh xác định nhu cầu khai thác từng giai đoạn, từ năm 2018 đến năm 2025.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch về tài nguyên khoáng sản, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý những hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật. Đồng thời, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước thực hiện tốt các biện pháp bảo vệ môi trường, tăng cường phối hợp liên ngành, liên vùng trong khai thác và sử dụng nguồn nước.
Ngày 10 - 3 - 2021, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long ban hành Quyết định số 521/QĐ-UBND về việc phê duyệt kết quả nhiệm vụ “xây dựng, cập nhật kế hoạch hành động ứng phó biến đổi khí hậu tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2021- 2030 và tầm nhìn đến 2050”, tiếp đó là Quyết định số 637/QĐ-UBND, ngày 23 - 3 - 2021 phê duyệt Kế hoạch hành động ứng phó biến đổi khí hậu tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến 2050. Trong đó thể hiện sự bứt phá trong cách tiếp cận, định hướng ưu tiên và xác định mục tiêu trong thích ứng với biến đổi khí hậu, đánh giá thách thức và cơ hội của biến đổi khí hậu, lồng ghép vào các chiến lược, chương trình, quy hoạch, kế hoạch của địa phương, phù hợp với xu thế phát triển chung của quốc gia trong tình hình mới. Đề ra nhiều chủ trương cụ thể nhằm chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và thúc đẩy tăng trưởng xanh, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội từng giai đoạn và tầm nhìn đến năm 2050.
Nhằm hạn chế tác động của thủy triều, nước biển dâng, tỉnh đã đầu tư xây dựng, củng cố hệ thống đê bao, cải tạo, nâng cấp các cống, xử lý sạt lở bờ sông, rạch.
Tuy nhiên, tình hình sạt lở bờ sông, ngập và xâm nhập mặn, độ mặn cao, thậm chí độ mặn ở huyện Vũng Liêm lên tới 8-9%, tại vàm Măng Thít xấp xỉ 5,5%. Phạm vi xâm nhập mặn lớn, cuối năm 2020 xâm nhập 2 huyện Trà Ôn và Vũng Liêm, gây vỡ bờ bao, ảnh hưởng đến 17ha cây ăn trái; khoảng 1.274 ha lúa hè thu sớm bị nhiễm mặn, trên 1.000 ha lúa đông xuân trong giai đoạn sinh trưởng và lúa hè thu sớm đang ở giai đoạn mạ bị thiếu nước tưới do đóng cống ngăn mặn. Hầu như toàn bộ nguồn nước, kênh rạch ngoài vùng đê bao của huyện Trà Ôn và huyện Vũng Liêm và một phần của huyện Mang Thít bị nhiễm mặn vượt 2%; 12 nhà máy, trạm cấp nước sinh hoạt bị nhiễm mặn, ảnh hưởng đến 18.000 hộ dân(3).
3. Triển khai nhiệm vụ về ứng phó biến đổi khí hậu theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
Trước thách thức bởi biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên, Đại hội XIII của Đảng đã xác định chủ trương ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững:
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Bảo vệ, phát triển bền vững các hệ sinh thái tự nhiên, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, bảo vệ các hệ sinh thái đất ngập nước. Thể chế hoá đầy đủ các nguyên tắc thị trường trong chi phí để xử lý, khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi môi trường, nghĩa vụ đóng góp để đầu tư trở lại cho bảo vệ môi trường. Xây dựng lộ trình, cơ chế, chính sách, pháp luật để hình thành, vận hành mô hình kinh tế tuần hoàn. Thực hiện có hiệu quả các mục tiêu phát triển bền vững theo Chương trình nghị sự phát triển bền vững 2030 của Liên hợp quốc.
Bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập và ngăn chặn suy giảm tài nguyên nước, đặc biệt là nguồn nước ngọt, đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Công. Chủ động phòng, chống, hạn chế tác động của triều cường, ngập lụt, sạt lở, xâm nhập mặn do nước biển dâng đối với vùng ven biển, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường. Chủ động giám sát, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phát triển nền kinh tế xanh, ít chất thải, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, các bon thấp. Tăng cường chia sẻ thông tin, minh bạch, xây dựng cơ chế liên kết vùng trong ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Nghiên cứu, xây dựng phương pháp, quy trình dự báo, cảnh báo thiên tai, động đất, sóng thần, quan trắc, giám sát môi trường biển, biến đổi khí hậu, nước biển dâng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội bền vững, phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu. Thực hiện nghiêm và nâng cao chất lượng đánh giá tác động môi trường. Tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Triển khai chủ trương của Đại hội XIII về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, tỉnh Vĩnh Long cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức về việc bảo vệ môi trường, phát triển bền vững của cộng đồng đi đôi với kiểm tra, xử lý vi phạm ô nhiễm môi trường, nhất là xử lý vi phạm quy định về nước thải, chất thải trong sản xuất công nghiệp, các cơ sở y tế, khu tập trung đông dân cư, đô thị. Thường xuyên đánh giá, kiểm soát ô nhiễm và ứng cứu kịp thời các sự cố môi trường.
Nâng cao năng lực và trách nhiệm của cộng đồng trong phòng, tránh, giảm nhẹ thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn. Tăng cường kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý đất đai, tài nguyên khoáng sản và bảo vệ môi.
Hai là, triển khai đồng bộ các giải pháp chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, đẩy mạnh quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh. Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường. Thực hiện tốt công tác quản lý và sử dụng hiệu quả, hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Thực hiện các biện pháp phòng ngừa và hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường.
Tiếp tục triển khai đồng bộ và cụ thể hóa hơn nữa Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Mọi hoạt động đầu tư phải được điều phối thống nhất, bảo đảm tính liên vùng, liên ngành, có trọng tâm, trọng điểm. Đồng thời, nâng cao năng lực nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, nhất là tình hình xâm nhập mặn. Hoàn chỉnh cơ chế chính sách, quy định về quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản theo quy hoạch, bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm. Khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng mới, khuyến khích doanh nghiệp bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài nguyên và năng lượng. Nâng cao chất lượng công tác dự báo và chủ động ứng phó, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai và tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ngập lụt, sạt lở và xâm nhập mặn.
Ba là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập, quản lý và triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng tài nguyên đất theo hướng nâng cao tính liên kết, đồng bộ giữa quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất với quy hoạch xây dựng, quy hoạch ngành, lĩnh vực khác có sử dụng đất. Bảo đảm phân bổ hợp lý và sử dụng hiệu quả đất đai, quản lý chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa.
Tăng cường chuyển đổi mô hình phát triển dựa trên hệ sinh thái phù hợp với điều kiện tự nhiên và thuận theo quy luật tự nhiên. Đồng thời, chủ động đầu tư xây dựng hạ tầng trên cơ sở điều phối thống nhất, bảo đảm tính liên vùng, liên ngành, có trọng tâm, trọng điểm và có lộ trình hợp lý. Trước mắt, tập trung ưu tiên các công trình cấp bách, các công trình có tính chất trọng điểm để thúc đẩy phát triển kinh tế toàn vùng và các công trình thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân.
Bốn là, trên cơ sở quan điểm, định hướng của Đảng, tỉnh Vĩnh Long cần rà soát, điều chỉnh các quy chế, quy định, bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán và phương pháp tiếp cận chiến lược chung về liên kết vùng.
Rà soát chức năng, nhiệm vụ, nâng cao năng lực các cơ quan chức năng ở địa phương, bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất giữa các cấp và liên ngành trong ứng phó với biến đổi khí hậu. Thường xuyên theo dõi, nắm chắc tình hình diễn biến, tác động của biến đổi khí hậu để kịp thời bổ sung, hoàn thiện thể chế ứng phó với biến đổi khí hậu cho phù hợp với điều kiện thực tế vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Năm là, tăng cường đầu tư xây dựng, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo hướng thân thiện với môi trường sinh thái. Cùng với các tỉnh, thành khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Vĩnh Long cần nghiên cứu đề xuất những dự án ứng phó với biến đổi khí hậu trên địa bàn tỉnh phù hợp với các quy hoạch vùng, góp phần vào thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
Ngày nhận: 26-4-2024, Ngày bình duyệt: 10-5-2024; Ngày duyệt đăng: 12-5-2024.
(1), (3) GS, TSKH Lê Huy Bá (chủ biên), TS Lương Văn Việt, PGS, TS Nguyễn Xuân Hoàn: Khô hạn, xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long cơ sở lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2017, tr. 327, 267-327.
(2) Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long: Quyết định số 10/2018/QĐ-UBND về phê duyệt điều chỉnh quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng cát lòng sông trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2030.
(TN&MT) - Các công ty bảo hiểm cho biết chiến lược của Liên minh châu Âu (EU) để thích ứng với các rủi ro của biến đổi khí hậu cần phải chủ động và tham vọng hơn nhiều để giảm thiểu rủi ro thiên tai như lũ lụt.
Cờ Liên minh châu Âu bay phấp phới bên ngoài trụ sở Ủy ban châu Âu ở Brussels, Bỉ vào ngày 25/6/2020. Ảnh: Reuters
Ủy ban châu Âu đang yêu cầu xem xét về chiến lược hiện tại của EU để thích ứng với biến đổi khí hậu, được đề ra vào năm 2013 và cân nhắc nếu thay đổi, cần phải thực hiện những thay đổi nào.
Liên đoàn Bảo hiểm Châu Âu (Insurance Europe) cho rằng chiến lược của EU cần chuyển sang cách ứng phó phòng ngừa chủ động hơn. "Điều này nên bao gồm việc thực thi các chính sách bất lợi cho rủi ro, chẳng hạn như quy chuẩn xây dựng, phòng chống lũ lụt và tránh xây dựng trong các khu vực rủi ro cao", Liên đoàn Bảo hiểm Châu Âu cho biết.
Liên đoàn này cho rằng, chiến lược ban đầu năm 2013 của EU rất hữu ích, nhưng nó không giải quyết được đầy đủ tác động của biến đổi khí hậu trong tương lai và không đặt trọng tâm vào giai đoạn “trước thảm họa”.
Theo Liên đoàn, với các hiện tượng thời tiết cực đoan ngày càng thường xuyên và nghiêm trọng, việc giảm thiểu tác động kinh tế, xã hội và môi trường do biến đổi khí hậu là không đủ và cần tập trung hơn vào việc thích ứng. Cụ thể, cơ quan này kêu gọi công bố dữ liệu chất lượng cao về các biện pháp thích ứng và EU tìm hiểu việc sử dụng các quan hệ đối tác công tư để đảm bảo các biện pháp thích ứng được thông qua.
“EU cũng cần cải thiện khả năng của các công ty bảo hiểm bằng cách phối hợp với các quốc gia để đảm bảo thực thi các biện pháp thích ứng trên toàn khu vực, qua đó khuyến khích các hành vi phòng ngừa”, Liên đoàn Bảo hiểm Châu Âu nhấn mạnh.